Khí công
ĐẠT MA DỊCH KINH CÂN
Y Võ Thiên Phúc
ĐẠT MA DỊCH KINH CÂN
Năm 917 sau công nguyên, Đạt ma Tổ sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo sau đến Tung Sơn (Hà Nam) xây dựng chùa Thiếu Lâm để truyền đạo, các đệ tử nhập môn học phật pháp, đồng thời luyện võ nghệ tự vệ, để sau truyền giáo, lỡ gặp kẻ hung họa.
Nhiều người thể lực kém, không luyện võ được, nên tổ sư phổ biến một phương pháp luyện tập là Đạt ma dịch kinh cân, để chuyên biến thể lực yếu thành khỏe, cách tập đơn giản nhưng hiệu lực lớn, vì tiêu trừ được các bệnh.
Đến bây giờ người ta áp dụng lý thuyết “khí - huyết” của Đông Y để chứng minh. Học thuyết “khí - huyết” của Đông Y (phương pháp “ vẫy tay” theo Dạt mà dịch kinh cân) có cơ sở lý luận rất vững chắc: tình trạng của con người liên quan chặt chẽ với “ khí - huyết” của họ. Về “huyết” thì rất rõ ràng và dễ hiểu vì ta thấy được. Nhưng trong Đông Y cái được gọi là “huyết” thì chúng ta không thể tách rời hạn chế từng mặt như: máu loãng hay đặc, hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào….để nghiên cứu, mà là dùng con mắt nhìn toàn diện của quá trình sinh lý và quá trình tuần hoàn của huyết mà xem xét.
Lý luận Đông Y có triết lý vững vàng nó mang tính chất khái quát rất cao. Khi nó nêu vấn đề “huyết” thì tất nhiên không cô lập lấy một giọt máu không còn sức sống, hoặc một bầu máu tách rời cơ thể, mà là phân tích đến trạng thái vận động, quá trình sinh lý và các mối liên quan khác trong quá trình sinh lý của máu. Về khí cũng vậy, hòa khí (khí của người hòa hiệp) là không hề lay động khi đã quyết định, người xem tướng giỏi là người rành xem khí sắc. Sai là do thiên và “khí” cửa không khí không rải khắp cơ thể được nên sinh bệnh. Theo ý kiến riêng của tôi thì cái khí mà Đông Y nêu ra có lẽ là nhiệt năng trong cơ thể con người. Mọi người đều cho rằng, toàn bộ quá trình sinh lý của con người cũng giống như quá trình sản xuất của một công xưởng. Ví dụ như một cái xe ô tô xăng được đốt ngoài ống dẫn xăng, và do kết quả của việc biến hóa hóa học của vật chất, nên nó có được năng lượng hóa học. Năng lượng này gốc là của sự hoạt động của máy móc và năng lượng là do một hình thức này có thể biến đổi thành hình thức khác. Piston là do việc vận động của năng lượng hóa học tác động mà đã biến thành năng lượng cơ học. Chiếc xe hơi mà chạy được đều do năng lượng cả.
Nhưng trong một hệ thống vận động máy móc, không phải toàn năng lượng đều được sử dụng một cách hiệu quả cho máy chạy. Năng lượng hóa học trong ống hơi khi biến thành công năng do việc ma sát linh kiện của các linh kiện máy móc buộc nó phải bớt một bộ phận năng lượng để khắc phục công năng của sự ma sát đó thì bộ phận máy móc xuất hiện hiện tượng nóng tức là lúc đó mọi bộ phận năng lượng hóa học đã biến thành nhiệt năng. Nhiệt năng chỉ mang rõ tính hao phí thôi không có tích sự gì, nhưng nó không thể không có và không phải là ít. Do đó, hình thức vận động cơ giới hóa bản thân nó cũng cần có nhiệt năng. Quá trình sinh lý của cơ thể con người, không phải là quá trình vận động máy móc giảm đơn. Những tư duy của não, co bóp của phổi; nhịp đập của tim; tuần hoàn của máu, co bóp của dạ dày…đều cần phải tiêu hao một số nhiệt năng nhất định, chưa kể đến năng lượng tiêu hao do hoàn cảnh, người làm việc ngoài trời.
Con người cần duy trì một nhiệt độ nhất định của cơ thể, thì cũng cần có sự phản ánh nhiệt lượng nhất định của cơ thể và duy trì nó.
Nhiệt năng đầy dủ thì khí sắc hồng hào, thiếu nhiệt năng thì mặt này xanh, xám. Vậy nhiệt năng do đâu mà có.
Đương nhiên là từ thức ăn mà ra, nhưng thức ăn sau khi tiêu hóa hấp thụ, cũng không thể nào trực tiếp sinh ra nhiệt năng, nó cũng như xăng trong ống hơi của xe, phải kinh qua biến hóa hóa học, tức là cần ho hấp không khí, để cho thức ăn được dưỡng khí của không khí để trải qua sự sinh ra nhiệt năng của dưỡng khí.
Cho nên cái “khí” trong Đông Y không bác bỏ cái khí không khí mà nó lại mang một nội dung có tính khái quát rộng lớn hơn. Ta thở không khí vào phổi, từ đường ruột hấp thị chất dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng và không khí được đưa đến các tế bào của toàn thân để có được ôxy hóa và sinh ra nhiệt năng, đồng thời cũng đưa những khí thải và thức ăn thải từ các tế bào trên cơ thể thu hồi về để bài tiết ra, tuần hoàn tốt, phát huy tác dụng tốt của máu, thì quá trình sinh lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng, sinh hoạt sức khỏe con người đương nhiên đảm bảo.
Nhưng chỉ có hoạt động tốt của chức năng, tuần hoàn tốt của máu chưa đủ mà cần phải có nhiệt năng nhất định.
Cho nên trong khí huyết, không thể đơn độc chỉ có huyết mà không có không khí và ngược lại, chỉ có khí mà không có huyết. Trong Đông Y cho rằng mâu thuẫn chủ yếu trong cơ thể con người âm - dương, mà cũng là khí huyết (âm huyết và dương khí).
Xưa có câu nước giữa dòng không thôi, trục bánh xa có hoạt động mới không rỉ, nên vận động có ảnh hưởng rất lớn đối với khí huyết. Ai cũng biết vận động cơ thể là đẩy mạnh tuần hoàn của máu, và do vận động nên hao phí rất nhiều nhiệt năng, nên tự hồ như hao bớt khí lực. Nhiệt năng là do sự hòa hợp giữa thức ăn và khí, cơ năng tiêu hóa và phổi đều khỏe lên vận động đúng và đẩy mạnh tác dụng sinh lý của các cơ năng này, tuy có tiêu hao nhiệt năng nhưng lại làm cho nguồn nhiệt năng thịnh vượng lên. Do đó nên vận động có mang tính đối kháng của nó. Vận động đối kháng này rất quan trọng đối với người làm việc bàn giấy. Một người mà 1/3 thời gian ở trong nhà và đều ngồi tại một chỗ, đứng lên rất ít, vì phải chồm lên mặt bàn nên phổi bị ép một bên, vì ngồi trên ghế nên ruột và dạ dày, gan, lá lách đều bị đè bẹp xuống, không vận động được thuận lợi, thâm chí đôi chân cũng trở thành vô dụng, thế là tim, phổi phải làm việc như cũ mà bộ tiêu hóa làm việc kém, nên mất thăng bằng, nguồn nhiệt năng bị ách tắc, ảnh hưởng đến sự tuần hoàn của máu vì thế sinh ra các thứ bệnh. Nên dịch kinh cân làm khí huyết hoạt động điều hòa nên có tác dụng chữa bệnh tốt.
I. Áp dụng dịch kinh cân để điều trị ung thư
Thường người ta dùng “Dưỡng tâm đan” kết hợp với huyền Dịch cân kinh đã chữa khỏi hẳn bênh ung thư nhưng giá thành của thuốc quá cao nên chỉ người có tiền mới dùng được, không đại chúng
Chỉ luyện dịch cân kinh, cũng có tác dụng khả quan.
Nay phân tích theo Đông Y bệnh ung thư là gì?
Ung thư, và nhọt đều di kết cục của khí huyết, là kết quả kinh lạc, không phong xuất, là các bật phế vật phải thải ra.
Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch gan,các chất làm kho…..do không đủ nhiệt năng nên công năng của máu bị giảm sút nên không thể thải các chất không cần thiết cho cơ thể ra ngoài. Tập dịch kinh cân tay vẫy đúng phép, vai động, miệng da dày mở đủn nhiệt năng, máu mới sinh các sự chèn ép, mất thăng bằng trong tạng phủ bị xóa bỏ, do vẫy tay theo Dịch kinh cân cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột và dạ dày tiếp được khí thận do khí hoạt động, nên cũng gây tác dụng hưng phấn, khi chức năng của máy được tăng lên, thì giúp cho việc tổng cựu nghinh tân được tốt và khí huyết được tăng bằng.
Theo số liệu thống kê
Cụ Quách Chu 76 tuổi, phát hiện U ác ở não và ở phổi, được phổ biến cụ tập ngày 3 buổi, vấy tay 2160 lần sau 5 tháng thì hết u bệnh khỏi.
Cụ Trương công Phát 46 tuổi phát hiện ung thư máu, tập ngày 3 lần, cụ tập ngày vẫy tay 1080 lần sau 3 tháng đã đi làm, 3 năm vẫn khỏe mạnh.
Cụ Từ Hạc Đính 60 tuổi bị ung thư phổi kiêm bán thân bất toại, tập 5 tháng khỏi bán thân bất toại, và kiểm tra thì ung thư phổi cũng biến mất.
Ngoài ra bị hen bẩm sinh hay bị hen nặng kéo dài tập Đạt mà dịch kinh cân sẽ khỏi hoàn toàn.
Nguyên nhân bệnh ung thư hiện nay trên thế giới còn đang bàn cãi.
Ngay Dưỡng tâm đan cũng không phải là thuốc đặc hiệu chữa ung thư mà là giúp tim hoạt động tốt để thải độc trong cơ thể mà thôi nhưng về nguyên nhân bệnh ung thư thì “khí - huyết” của Đông Y đã lập luận rõ ràng. Vì quá trình sinh lý của cơ thể con người là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh rất phức tạp, giữa cái sống với cái chết, giữa ốm đau và mạnh khỏe, giữa già nua và trẻ trung, nhưng kết quả của cuộc đấu tranh là do nhân tố nội tại quyết định, chứ không phải là do hoàn cảnh bên ngoài quyết định nên xem cơ thể con người là một chính thể vận động. Trong vận động này lục phủ ngũ tạng đều dựa vào nhau “tương sinh” ức chế lẫn nhau. Nhưng khí huyết có tác dụng đến tất cả lục phủ, ngũ tạng cho nên việc phát sinh bệnh ung thư cũng do khí huyết không chu đáo mà ra.
Đông Y đã xác định rằng cuộc đấu tranh của cơ thể với bệnh ung thư là cuộc đấu tranh trong nội bộ cơ thể con người, từ đó mà xây dựng quan điểm cho rằng bệnh ung thư là thứ bệnh chữa được. Đương nhiên bệnh tật là do sự trì trệ khí huyết mà ra, nó lại làm cho hao tốn thêm khí huyết, vậy việc làm cho khí huyết thay đổi mà ta tự chữa được bệnh. Từ đó mà xây dựng được lòng tin vững chắc của người bệnh với việc trị bệnh ung thư, từ đó tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để có thể thay đổi khí huyết Đạt ma dịch kinh cân còn chữa được trĩ ngoại, trĩ nội. Có người bị trĩ nội và đầy bụng chỉ tập trong vòng 1 tháng là khỏi. Trước đây mỗi lần y ngồi xổm là dom bị lôi ra thì sau 1 tháng luyện tập dom hết lôi, và bệnh đầy bụng cũng hết.
Tập dịch kinh cân giúp cho ăn tốt ngủ ngon đây là việc phổ biến và làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân suy nhược thần kinh, huyết áp cao bệnh tim, bán thân bất toại, bệnh thận, trúng gió đều được khỏi cả.
Đông Y cho rằng vấn đề cơ bản của sức khỏe con người là do khí huyết mất thăng bằng, mà dịch kinh cân giải quyết được vấn đề này nên đối với các bệnh khác nhất là các bệnh mãn tính đều có thể chữa được cả.
II. Phương pháp luyện đạt mà dịch kinh cân:
Trước tiên nói về tư tưởng:
Phải có hào khí: là quyết tâm phải tập cho đến nơi và đều đặn, phải tin tưởng vững vàng, không nghe lời bàn ra nói vào mà chán nản bỏ dở.
Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.
1. Lên không xuống có:
Lên ba xuống bảy
Trên phải không, dưới nên có, đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng mềm thẳng, thắt lưng mềm dẻo cánh tay phải vẫy, cùi trỏ chỏ thẳng mà mềm, cổ tay trần, bàn tay quay lại phía sau phải quạt, lỗ hậu môn phải thót, đồng thời bụng dưới thót, gót chân lũng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng ngón chân bấm chặt.
Đây là những quy định cụ thể của các yêu cầu cơ bản khi luyện tập dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên giữ cho trống không, buông lỏng thảnh thơi.
Đầu óc không nghĩ ngợi lung tung chỉ chú ý vào việc tập. Xương cổ cần buông lỏng, để cho có cảm giác như đầu treo lơ lửng mồm giữ tự nhiên (không mím môi) ngực nên buông lỏng, để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai.
Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, căng thẳng, đủ sức bụng dưới thót vào, hậu môn nhỉnh lên, ngón chân bám chặt vào mặt đất, gót chân để phẳng trên mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân ở trạng thái căng thẳng xương sống thẳng như cây gỗ khi vẫy tay nhờ câu lên vụng xuống có nghĩa là lấy lại sức vẫy tay ra phía sau, tay đưa về phía trước là do quán tính không dùng sức.
2. Trên ba dưới bảy
Là phần trên để lỏng chế độ ba phần khí lực.
Phần dưới lấy gân sức tới bảy phần thể lực, phải quán triệt đầy đủ, thì hiệu quả rất tốt mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì chỉ nhẩm đếm lần tay vẫy.
Các bước cụ thể như sau:
a. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai
b. Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.
c. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu miệng trong trạng thái bình thường.
d. Đầu ngón chân bấm trên mặt đất, gạt chân sát đất, bắp chân đùi căng, thẳng.
e. Hai mắt chọn điểm đằng xa làm mục tiêu để ngắm, không nghĩ ngợi lung tung chỉ chú ý vào bàn chân và nhẩm đếm.
f. Vẩy tay, dùng sức vẫy tay về phía sau, hai tay trở lại phía trước theo quán tính, mà không dùng sức, chân vẫn lấy gân không
g. Vẫy tay từ 2/8 rồi 324 và 432 rồi 540 dần lên tới 2160 ước chừng 30 phút.
h. Phải có quyết tâm, nghĩa là kiên trì số lần vẫy tay từ từ tăng lên không nên miễn cưỡng nhưng cũng không được lùi, tùy tiện buông lỏng, vì thế sẽ làm mất lòng tin trong công việc luyện tập như vậy khó có kết quả. Khi mới tập cũng không nên dùng tận lực, làm tổn thương đến ngón chân, dục tốc nôn nóng mong khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn phải quyết tâm từ từ tiến lên mới là đúng cách sẽ thu được kết quả như ý.
Tinh thần phải tập trung, tư tưởng phân tán thì khí huyết loan ra, đảo lộn trên bảy dưới ba là sai hỏng.
Khi vẫy tay tới 324 cái trở lên thường có trung tiện, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mắt nóng bừng….đấy là hiện tượng bình thường đừng ngại.
Trung tiện, và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa chân mỏi do khí huyết dồn xuống cho hợp với vũ trụ thiên kinh địa trong.
Bệnh gan:
Do khí huyết tăng gan không tốt gân khí không thoát, tích thủy, làm cho khó bài tiết đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng đến tỳ, vay, mặt…luyện dịch kinh cân có thể giải quyết vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là có hiệu quả sớm.
Bệnh mắt:
Luyện dịch kinh cân có thể khỏi đau mắt đỏ, cận thị thậm chí trị được cả bệnh đục tinh thể (thông manh)
Trung nội kinh có nói mắt mờ nhờ huyết mà nhìn được, khi khí huyết không dẫn đến, thì đương nhiên sinh ra các loại bệnh, con mắt là trong hệ thống của thị giác nhưng cũng là một bộ phận của cơ thể.
Những phản ứng
Sau tập Dịch kinh cân, có thể có những phản ứng sau đây:
1. Đau buốt
2. Tê dại
3. Lạnh
4. Nóng
5. Đầy hơi
6. Sưng
7. Ngứa
8. Ứa nước mắt
9. Ra mồ hôi
10. Có cảm giác như kiến bò, kiến cắn
11. Rát thịt giật gân
12. Đầu xương có tiếng kêu
13. Có cảm giác như máu đang chạy
14. Lông tóc dựng đứng
15. Âm nang to lên
16. Lưng đau
17. Máy mắt, my mắt giựt
18. Đầu nặng
19. Có hơi thở ra nhiều
20. Nấc
21. Trung tiện
22. Gót chân nhức nhối như có mủ
23. Huyết áp biến đổi
24. Cặn trắng ở lưỡi biến đổi
25. Da cứng và dạ dày rụng đi
26. Sắc mặt biến đổi
27. Đau
28. Nôn mửa
29. Ho
30. Đại tiện ra máu
31. Tiểu tiện nhiều
32. Trên đỉnh đầu mọc mụn
33. Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra
34. Chảy máu cam
Tập Dịch cân kinh xảy ra nhiều phản ứng tùy từng thể trạng, không thể kể hết ra được, đấy là các nọc khí trong người, bị bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ chất ứ đọng và sản sinh chất bồi bổ, có nhều phần ích lợi. Có phản ứng là sung đột giữa chính khí và tà khí.
Phản ứng khi tập là sức khỏe đề kháng đẩy cạn bã trong cơ thể gân, thần kinh các tế bào ác, mà máu không thải nổi, nhờ luyện tập máu huyết lưu thông mới đẩy nổi các cặn bã ra nên thành phản ứng vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như mức cũ, khoan tiến số lần tập lên hiện tượng phản ứng hết là khỏi một căn bệnh, tập luyện đều tất nhiên đạt kết quả tốt.
Luyện Dịch kinh cân cần đạt được bốn tiêu chuẩn sau đây
Nội trung để - tức là hư
Tức là nâng cao khí lên, nâng cao khí lên là then chốt để điều trình tạng phủ lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.
Tư tưởng tế - tức là thực
Tức là tứ chi phối hợp các động tác theo đúng nguyên tắc, tư tưởng tế song song với nội trung để sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dồn xuống, cơ năng sinh sản càng ngày càng mạnh.
Ngũ tạn phát – nghĩa 5 trung gâm của các huyệt
Bách hội – 2 huyệt trên đỉnh đầu
Lao cung – 2 huyệt ở hai gan bàn tay Dũng tuyền 2 huyệt ở hai gan bàn chân khí luyện dịch kinh cân 5 huyệt này đều có phản ứng khác nhau, hoàn toàn thông suốt. Nhâm , đốc mạch 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả khi thường làm tăng cường thân thể, chữa khỏi các bệnh nan y mà ta không ngờ.
Lục phủ mình.
Lục phủ là: ruột non – mặt – dạ dày đại tràng- bong bóng, tam tiêu. Lục phủ có nhiệm vụ hậu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết, lục phủ minh nghĩa là 6 cơ quan này không trì trệ, ứ đọng, nên tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, sức tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái thịnh vượng của cơ thể.
Một số điểm cần chú ý
1. Số lần vẫy tay, không nên ít tiến dẫn tới 1080 tới 1620 là mức bình thường bệnh nhân yếu nên châm trước, trước ít vừa tới thể lực mau tiến dần lên, không được lùi, người bệnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, nhớ là chân phải để sát đất, rồi bấm đất và thót hậu môn
2. Số lần tập trong ngày
Buổi sáng thanh tâm, buổi chiều trước khi ăn, buổi tối trước khi ngủ
3. Có thể tập nhiều nhất là bao nhiêu?
Bình thường mỗi ngày vẫy tay trên ba, bốn nghìn cái, cần phải kiên trì mới có hiệu quả - số tối đa mỗi ngày vẫy tay 10 nghìn số lẻ, có người vẫy tới 20 – 30 nghìn nếu sau khi tập bệnh nhân thấy ăn ngon, ngủ tốt, đạị tiện điều hòa, tinh thân tỉnh táo, thì chứng tỏ con số đó thích hợp.
Theo nguyên tắc thì nên chậm chí không nên nhanh bình thường vẫy tay chậm 1080 cái hết 19-20 phút, nếu nhanh thì 10 phút vẫy tay được nửa chừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một chút, đó là tác dụng của khí, khí mới vẫy tay thì vẫy rộng vòng và chậm một chút, khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng và nhanh hơn.
Người bệnh nặng thì nên vẫy chậm mà hẹp vòng người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh mà dùng sức nhiều người khỏe mạnh có thể nắm bàn tay mà vẫy, vẫy tay nhanh qua làm cho tim đập nhanh, vẫy tay chậm qua thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông.
4. Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít? Nặng hay nhẹ?
Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh chứ không phải môn thể thao khích liệt, đây là môn thể dục mềm dẻo đặc biệt của nó là ‘dùng ý mà không dùng sức’ nhưng nếu vẫy nhẹ quá thì không tốt, bởi vì bắp không được dắc mạnh, thì lưng và ngực cũng không chuyển động nhiều tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động bắp vai. Bệnh phong thấp thì nên dùng mức (nặng) một chút. Bệnh huyết áp cao thì nên lắc chậm và nhẹ nói tóm lại: phần lớn phải tự mình nắm vững tình trạng, phân tích những triêuh chứng sau khi tập nghe sự nhận xét của người khác thấy sự biến chuyển của mình, nhanh nhẹn hơn dồng hào hơn, tươi tỉnh hơn, hay kén hơn trước, rồi tự mình suy nghĩ và quyết định cách tập, rồi luôn tổng kết nên nguyên tắc là tập thế nào cho trong người thấy thoải mái và dễ chịu là đúng và tốt nhất.
Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ (ích lợi cho cơ thể ) động tác mạnh (nặng là tà loại bỏ các chất vô ích) lý luận đó cũng đáng được nghiên cứu.